Hướng dẫn thực hành vệ sinh tay trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.

Nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) hay còn gọi là nhiễm khuẩn liên quan tới chăm
sóc y tế (Healthcare Associated Infection – HAI) đang là vấn đề y tế toàn cầu do làm tăng
tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ tử vong, kéo dài ngày nằm viện và tăng chi phí điều trị. NKBV
thường do các chủng vi khuẩn đa kháng thuốc gây bệnh như: Tụ cầu vàng kháng
methicilin, cầu khuẩn đường ruột kháng vancomycin, trực khuẩn gram âm sinh men -
lactamase phổ rộng.
Kiểm soát nhiễm khuẩn (KSNK) là việc áp dụng đồng bộ các biện pháp nhằm
ngăn ngừa sự lan truyền các tác nhân gây nhiễm khuẩn trong thực hành khám bệnh,
chữa bệnh (KBCB), là nội dung quan trọng nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc người
bệnh (NB) tại các cơ sở KBCB. Trong các biện pháp KSNK, vệ sinh tay (VST) từ lâu
luôn được coi là biện pháp đơn giản và hiệu quả nhất, không chỉ trong chăm sóc NB mà
ngay cả ở cộng đồng khi đang phải đối mặt với nhiều bệnh dịch nguy hiểm xảy ra trên
diện rộng như dịch tả, cúm A (H5N1, H1N1), v.v.
Hướng dẫn này nhằm cung cấp các bằng chứng khoa học liên quan tới lây truyền
tác nhân gây bệnh qua bàn tay và hiệu quả của VST trong phòng ngừa nhiễm khuẩn
cũng như những quy định cơ bản về thực hành VST để thống nhất áp dụng ở mọi nhân
viên y tế (NVYT), mọi NB, người nhà NB trong các cơ sở KBCB, qua đó góp phần
làm giảm NKBV

Những bằng chứng khoa học liên quan tới thực hành vệ sinh tay

  1. Phổ vi khuẩn trên bàn tay
  • Năm 1938, Price P.B chia vi khuẩn trên da bàn tay làm 2 nhóm: Vi khuẩn vãng
    lai và vi khuẩn định cư.
  • Vi khuẩn định cư: Gồm các cầu khuẩn gram (+): S. epidermidis,
    S. aurers, S. hominis, v.v. và các vi khuẩn gram (-): Acinetobacter, Enterobacter…
    Các vi khuẩn gram (-) thường chiếm tỷ lệ cao ở tay NVYT thuộc đơn vị hồi sức cấp
    cứu, đặc biệt ở những người VST dưới 8 lần/ngày. Phổ vi khuẩn định cư thường cư
    trú ở lớp sâu của biểu bì da. VST thường quy không loại bỏ được các vi khuẩn này
    khỏi bàn tay nhưng VST thường xuyên có thể làm giảm mức độ định cư của vi khuẩn
    trên tay. Để loại bỏ các vi khuẩn này trên da tay trong VST ngoại khoa, các thành viên
    kíp phẫu thuật cần VST bằng dung dịch VST chứa cồn hoặc dung dịch xà phòng chứa
    chlorhexidine 4% trong thời gian tối thiểu 3 phút.
  • Vi khuẩn vãng lai: Loại vi khuẩn này gồm các vi khuẩn trên da NB hoặc trên các
    bề mặt môi trường bệnh viện (chăn, ga giường, dụng cụ phương tiện phục vụ NB) và làm
    ô nhiễm bàn tay trong quá trình chăm sóc và điều trị. Mức độ ô nhiễm bàn tay phụ thuộc
    vào loại thao tác sạch/bẩn, thời gian thực hiện thao tác và tần suất VST của NVYT.
  • Phổ vi khuẩn vãng lai là thủ phạm chính gây NKBV, tuy nhiên phổ vi khuẩn
    này có thể loại bỏ dễ dàng bằng VST thường quy (rửa tay với nước và xà phòng
    thường hoặc chà tay bằng dung dịch VST chứa cồn trong thời gian 20 giây-30 giây).
    Do vậy, VST trước và sau tiếp xúc với mỗi NB là biện pháp quan trọng nhất trong
    phòng ngừa NKBV. VST trước phẫu thuật cần loại bỏ cả hai phổ vi khuẩn vãng lai và
    định cư, do vậy cần áp dụng quy trình VST ngoại khoa.
    5
  1. Bằng chứng lan truyền tác nhân gây bệnh qua bàn tay
  • Lan truyền tác nhân nhiễm khuẩn từ NB này sang NB khác qua bàn tay NVYT
    cần một chuỗi các yếu tố, gồm: (1) Vi sinh vật (VSV) có trên da NB hoặc trên bề mặt
    đồ dùng, vật dụng xung quanh NB truyền vào tay NVYT; (2) Tiếp theo, NVYT không
    VST hoặc VST không đúng quy trình hoặc sử dụng hóa chất VST không thích hợp,
    (3) Cuối cùng, bàn tay bị ô nhiễm của NVYT phải tiếp xúc trực tiếp NB khác hoặc
    gián tiếp qua các dụng cụ, thiết bị sử dụng trên NB.
  • Trong môi trường bệnh viện, mọi nơi bàn tay đụng chạm vào đều có vi khuẩn
    trên đó. Các tác nhân NKBV không chỉ có ở các vết thương nhiễm khuẩn, ở chất thải
    và dịch tiết của NB mà thường xuyên có trên da lành của NB. Lượng vi khuẩn (ví
    dụ: S. epiderminis, Proteus mirabilis, Klebsiella spp. và Acinetobacter spp.) có ở 1
    cm2 da lành của NB thay đổi từ 102 đến 106 vi khuẩn, nhiều nhất là ở vùng bẹn, vùng
    hố nách, vùng nếp khuỷu tay, bàn tay. Có 25% da người bình thường mang S.
    Aureus, da người mắc bệnh tiểu đường, NB lọc máu chu kỳ và người viêm da mãn
    tính có S. aureus định cư cao hơn. Các tác nhân gây bệnh này, đặc biệt là các chủng
    tụ cầu hoặc cầu khuẩn đường ruột có khả năng sống sót cao trong điều kiện môi
    trường khô, làm ô nhiễm quần áo, ga giường, đồ dùng cá nhân và bề mặt các phương
    tiện khác trong buồng bệnh.
  • Trong quá trình chăm sóc NB, bàn tay NVYT thường xuyên bị ô nhiễm VSV
    có ở trên da NB cũng như ở bề mặt môi trường bệnh viện. Theo Lê Thị Anh Thư và cs
    (Bệnh viện Chợ Rẫy), lượng vi khuẩn trung bình có ở bàn tay NVYT là 5,4 log, cao
    nhất ở hộ lý, kế đến là bác sỹ và thấp nhất là điều dưỡng. Pittet D. và cs. (1999) đánh
    giá mức độ ô nhiễm bàn tay NVYT trực tiếp chăm sóc NB, số lượng vi khuẩn có ở
    các đầu ngón tay thay đổi từ 0 đến 300 đơn vị khuẩn lạc, trong đó trực khuẩn gram (-)
    chiếm 15% và tụ cầu vàng chiếm 11% các chủng vi khuẩn phân lập được. Thời gian
    thao tác càng dài thì mức độ ô nhiễm bàn tay càng lớn.
  • Không VST trước khi chăm sóc NB là nguyên nhân quan trọng làm lan truyền
    NKBV. Các VSV có ở bàn tay ô nhiễm lan truyền trực tiếp sang NB thông qua các
    thực hành chăm sóc hoặc gián tiếp do bàn tay làm ô nhiễm các dụng cụ chăm sóc. Tại
    bệnh viện Bạch Mai, Nguyễn Việt Hùng và cs. đã nghiên cứu thấy bàn tay NVYT bị ô
    nhiễm trung bình: 1,65 log khuẩn lạc. Một số chủng vi khuẩn gây bệnh thường gặp
    gồm: A. baumannii, K. pneumoniae và S. aureus. Đáng chú ý, NVYT không thực hiện
    bất kỳ thực hành chăm sóc nào trong buồng bệnh có mức ô nhiễm bàn tay cao nhất
    (2,1 log). Nghiên cứu này càng khẳng định sự cần thiết phải VST thường xuyên, đặc
    biệt là VST trước khi vào buồng bệnh. Bàn tay NVYT là phương tiện lan truyền bệnh
    quan trọng trong các vụ dịch NKBV.
  1. Mối liên quan giữa vệ sinh tay và nhiễm khuẩn bệnh viện
  • VST làm giảm NKBV ở NB và NVYT. Nghiên cứu can thiệp điển hình của
    Semmelweis thực hiện năm 1847 cho thấy tỷ lệ tử vong ở sản phụ giảm từ 18% xuống
    5% sau ít tháng triển khai khử khuẩn tay bắt buộc bằng dung dịch chloride.
  • Gần đây, nhiều nghiên cứu tại những khu vực lâm sàng khác nhau nhằm đánh giá
    hiệu quả phòng ngừa NKBV của thực hành VST thường quy đã cho thấy tỷ lệ NKBV
    giảm khi cải thiện tỷ lệ tuân thủ VST ở NVYT, đặc biệt ở những khu vực có nhiều thủ
    6
    thuật xâm nhập như cấp cứu, hồi sức tích cực, ngoại khoa, nhi khoa. Nhìn chung, thực
    hiện tốt VST làm giảm 30% – 50% NKBV.
    Tóm lại, bàn tay là phương tiện quan trọng làm lan truyền NKBV. VST giúp loại
    bỏ hầu hết VSV có ở bàn tay, do đó, có tác dụng ngăn ngừa lan truyền tác nhân nhiễm
    khuẩn từ NB này sang NB khác, từ NB sang dụng cụ và NVYT, từ vị trí này sang vị
    trí khác trên cùng một NB và từ NVYT sang NB. VST là biện pháp đơn giản và hiệu
    quả nhất trong phòng ngừa NKBV, đồng thời cũng là biện pháp bảo đảm an toàn cho
    NVYT trong thực hành chăm sóc và điều trị NB.
  1. Tình hình tuân thủ vệ sinh tay ở nhân viên y tế
  • Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy tỷ lệ tuân thủ VST ở NVYT thay đổi từ
    13% – 81%, tính chung là 40,5%. Tỷ lệ tuân thủ VST không đồng nhất giữa các khu
    vực lâm sàng, khu vực hồi sức cấp cứu thường cao hơn các khu vực khác. Tỷ lệ tuân
    thủ VST ở bác sỹ thấp hơn các nhóm NVYT khác.
  • Tuân thủ VST trong các cơ sở KBCB ở nước ta hiện nay chưa tốt. Khảo sát tại
    10 bệnh viện năm 2005 cho thấy tỷ lệ tuân thủ VST ở NVYT là 13,4%. Trong những
    năm gần đây, tỉ lệ tuân thủ VST ở các cơ sở KBCB đã cải thiện đáng kể, dao động từ
    30% đến 40%.
  • Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới tuân thủ VST ở NVYT gồm thiếu phương tiện,
    thiếu kiến thức, thiếu NVYT (quá tải), lạm dụng găng, thiếu kiểm tra giám sát và
    thiếu các biện pháp tạo dựng thói quen VST
  • Trong rất nhiều yếu tố tác động tới tuân thủ VST không tốt ở NVYT thì lạm
    dụng găng và thói quen sử dụng một đôi găng để chăm sóc nhiều NB là yếu tố quan
    trọng. Vi khuẩn định cư ở NB có thể thấy ở 30% tay NVYT có mang găng khi chăm
    sóc NB. Các tác nhân gây bệnh xâm nhập vào tay NVYT qua các lỗ nhỏ ở găng hoặc
    khi tháo găng. Do vậy, mang găng không ngăn ngừa được ô nhiễm bàn tay và không
    thay thế được VST.
  • Tác dụng không mong muốn của các hóa chất VST cũng là một nguyên nhân
    làm giảm tuân thủ VST ở NVYT. Trên thực tế rất ít NVYT bị viêm da dị ứng do hóa
    chất VST trừ khi sử dụng loại hóa chất VST chất lượng không tốt (xà phòng bột, dung
    dịch xà phòng hoặc cồn không được bổ sung chất làm ẩm và dưỡng da). Các chế
    phẩm VST chứa iodine hoặc chlorhexidine có nguy cơ kích ứng da cao hơn dung dịch
    VST chứa cồn.
  • Các yếu tố ảnh hƣởng tới hiệu quả loại bỏ vi sinh vật trên tay
    VST giúp loại bỏ VSV có ở bàn tay. Theo Rotter (1999), VST bằng nước và xà
    phòng thường trong 30 giây loại bỏ được 1,8- 2,8 log vi khuẩn ở bàn tay. Đánh giá
    hiệu quả VST tại bệnh viện Bạch Mai (2007) cho thấy VST bằng xà phòng hoặc chà
    tay bằng dung dịch VST chứa cồn trong 30 giây có thể loại bỏ được > 90% vi khuẩn ở
    các đầu ngón tay NVYT. Hiệu quả loại bỏ VSV trên bàn tay của thực hành VST phụ
    thuộc vào một số yếu tố sau:
    5.1. Kỹ thuật vệ sinh tay
    VST không đúng quy trình sẽ không loại bỏ hết được VSV trên tay. Một số vị trí
    như đầu ngón tay, kẽ móng tay, kẽ ngón tay, mu ngón cái và mu bàn tay là những
    vùng NVYT thường bỏ quên không chà tay, do vậy đã không được tiếp xúc với hóa
    chất VST và VSV không được loại bỏ ở những nơi này. VST đúng quy trình giúp loại
    bỏ VSV ở bàn tay hiệu quả hơn. Nghiên cứu tại bệnh viện Bạch Mai (2007) cho thấy
    số lượng VSV ở tay NVYT thực hiện đúng kỹ thuật VST (0,2 log), thấp hơn so với
    NVYT thực hiện VST không đúng kỹ thuật (1,0 log).
    8
    5.2. Thời gian vệ sinh tay
    Thời gian VST ảnh hưởng tới mức độ loại bỏ vi khuẩn trên bàn tay. VST bằng
    nước và xà phòng thường trong 15 giây, lượng vi khuẩn giảm 0,6 log – 1,1 log, trong
    30 giây lượng vi khuẩn giảm 1,8 log- 2,8 log. Lượng vi khuẩn ở bàn tay giảm 3,5 log
    khi chà tay bằng dung dịch VST chứa cồn trong 30 giây; giảm 4 log – 5 log nếu chà
    tay trong 1 phút. Thực tế nghiên cứu tại Bệnh viện Bạch Mai, lượng vi khuẩn ở 5 đầu
    ngón tay NVYT sau VST ≥ 20 giây (0,7 log), giảm hơn nhóm VST < 20 giây (1,1
    log). Theo các khuyến cáo hiện nay, thời gian chà tay với hóa chất trong VST thường
    quy là 20 giây – 30 giây.
    5.3. Hóa chất vệ sinh tay
    Hiện nay có nhiều loại hóa chất VST có hiệu lực diệt khuẩn tốt đang được sử
    dụng rộng rãi trong các cơ sở y tế. Xét về mức độ loại bỏ VSV ở bàn tay, xà phòng
    thường là một hóa chất tốt; xà phòng khử khuẩn tốt hơn xà phòng thường và tốt nhất
    là chế phẩm VST chứa cồn. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) khuyến khích NVYT khử
    khuẩn tay bằng dung dịch VST chứa cồn trong 20 giây – 30 giây với hầu hết thao tác
    chăm sóc, điều trị NB.
    5.4. Mang đồ trang sức và móng tay giả
    Vùng da ngón tay dưới chỗ mang nhẫn chứa nhiều VSV gây bệnh hơn vùng da
    không mang nhẫn. Mang nhẫn là yếu tố nguy cơ dẫn đến tình trạng mang trực khuẩn
    gram (-) và tụ cầu vàng. Số lượng vi khuẩn phân lập được trên tay phụ thuộc vào số
    lượng nhẫn mang trên tay. Nhiều nghiên cứu cũng cho thấy kẽ móng tay là nơi chứa
    nhiều VSV nhất trên bàn tay. Các hướng dẫn thực hành VST hiện nay khuyến cáo
    NVYT không để móng tay dài, không mang móng tay giả khi chăm sóc NB; không
    mang nhẫn và các đồ trang sức khác khi VST, đặc biệt khi VST ngoại khoa.
  • Nội dung thực hành vệ sinh tay
  • Phƣơng tiện vệ sinh tay
    1.1. Hóa chất vệ sinh tay
  • Mọi hóa chất VST sử dụng trong y tế phải được Bộ Y tế cấp phép sử dụng. Các
    loại hóa chất VST thường được sử dụng hiện nay được mô tả chi tiết ở Phụ lục 1:
  • Xà phòng thường: Dạng bánh hoặc dạng dung dịch không chứa tác nhân diệt khuẩn.
  • Xà phòng khử khuẩn: Dạng dung dịch có chứa chloherxidine hoặc iodine.
  • Dung dịch VST chứa cồn (isopropanol, ethanol, n-propanol hoặc kết hợp hai
    trong các thành phần này hoặc kết hợp với 1 chất khử khuẩn).
  • Các hóa chất VST cần có chất làm ẩm da hoặc chất dưỡng da. Bình cấp hóa chất
    VST cần kín, có bơm định lượng tự động hoặc bằng cần gạt hoạt động tốt, có nhãn ghi rõ
    loại dung dịch VST và còn hạn sử dụng, được gắn tại các vị trí thuận lợi cho người sử
    dụng. Hạn chế sử dụng xà phòng dạng bánh, nếu sử dụng thì cần lựa chọn loại bánh nhỏ,
    để trong giá đựng có nắp đậy kín và có lỗ thoát nước.
    1.2. Bồn rửa tay
  • Bồn rửa tay ngoại khoa: Rộng, thành cao, có vòi cấp nước tự động hoặc cần
    gạt, quanh bồn không để phương tiện, đồ vật khác.
    9
  • Bồn rửa tay thường quy: Vòi cấp nước có cần gạt hoặc khóa vặn hoạt động tốt;
    bồn sạch, quanh bồn không để phương tiện, đồ vật khác.
    1.3. Nước rửa tay
  • Nước rửa tay ngoại khoa: Nước vô khuẩn, ví dụ nước máy hoặc nước RO
    (Reverse Osmosis – thẩm thấu ngược) được khử khuẩn bằng tia cực tím hoặc được lọc
    qua màng siêu lọc.
  • Nước rửa tay thường quy: Nước sạch (ví dụ nước máy đạt tiêu quy chuẩn Quốc
    gia về nước sinh hoạt QCVN 02: 2009/BYT được cấp qua vòi có khóa hoạt động tốt).
    1.4. Khăn lau tay
  • Khăn lau tay cho rửa tay thường quy: Khăn sạch sợi bông hoặc khăn giấy sử
    dụng một lần. Nếu là khăn sợi bông, cần giặt khử khuẩn sau mỗi lần sử dụng, được
    đựng trong hộp cấp khăn kín tại mỗi điểm rửa tay.
  • Khăn lau tay cho VST ngoại khoa: Khăn sợi bông được hấp tiệt khuẩn hoặc
    khăn giấy vô khuẩn dùng một lần. Khăn cần được đóng gói theo cơ số vừa đủ cho một
    ca phẫu thuật và được cấp cùng bộ áo choàng vô khuẩn trong buồng phẫu thuật. Nếu
    áp dụng quy trình VST ngoại khoa bằng dung dịch VST chứa cồn thì có thể sử dụng
    loại khăn giấy/khăn sợi bông sạch đựng trong thùng cấp khăn tại khu vực bồn rửa tay
    để lau khô tay trước khi chà tay bằng dung dịch VST chứa cồn.
    1.5. Trang bị phương tiện vệ sinh tay
  • Phương tiện VST thường quy phải luôn có sẵn ở mọi buồng phẫu thuật, thủ
    thuật, mọi khu vực chăm sóc NB, khu hành chính, khu tiếp đón NB và các buồng vệ
    sinh. Tại các khu vực có nguy cơ lây nhiễm cao, các giường NB nặng, xe tiêm, xe thủ
    thuật, buồng phẫu thuật, thủ thuật cần được trang bị dung dịch VST tay chứa cồn. Các
    buồng thủ thuật, buồng hành chính, buồng NB nặng, khu tiếp đón NB và khu vệ sinh
    phải có bồn rửa tay.
  • Tại mỗi bồn rửa tay thường quy, ngoài xà phòng thường rửa tay cần trang bị
    đồng bộ các phương tiện khác gồm quy trình rửa tay, khăn lau tay sử dụng một lần và
    thùng thu gom khăn đã sử dụng (nếu là khăn sợi bông sử dụng lại) hoặc thùng chất
    thải thông thường (nếu sử dụng khăn giấy dùng một lần).
  • Phương tiện tại mỗi điểm VST ngoại khoa bằng xà phòng khử khuẩn gồm: (1)
    Bồn và nước rửa tay đạt chuẩn; (2) Dung dịch xà phòng chứa chlorhexidine 4%; (3) Bàn
    chải đánh kẽ móng tay tiệt khuẩn.
  • Phương tiện tại mỗi điểm VST ngoại khoa bằng dung dịch VST chứa cồn gồm:
    (1) Bồn và nước rửa tay đạt chuẩn; (2) Dung dịch xà phòng thường; (3) Dung dịch
    VST chứa cồn; (4) Khăn lau tay sạch hoặc được hấp tiệt khuẩn; (5) Bàn chải đánh kẽ
    móng tay tiệt khuẩn.
    Nhìn chung, nên ưu tiên lựa chọn dung dịch xà phòng thường và cồn VST tay
    cho VST thường quy và ngoại khoa.
  • Thời điểm vệ sinh tay thƣờng quy
  • Mọi đối tượng trực tiếp chăm sóc NB cần rửa tay bằng nước và xà phòng
    thường hoặc chà tay bằng dung dịch VST chứa cồn vào những thời điểm sau (Phụ lục 2):
  • Trước khi tiếp xúc trực tiếp với mỗi NB.
    10
  • Trước khi thực hiện mỗi thủ thuật sạch/vô khuẩn.
  • Ngay sau mỗi khi tiếp xúc với máu, dịch cơ thể.
  • Sau khi tiếp xúc trực tiếp với mỗi NB.
  • Sau tiếp xúc với bề mặt đồ dùng, vật dụng trong buồng bệnh.
  • Ngoài ra, các thời điểm chăm sóc sau cũng cần VST:
  • Khi chuyển từ chăm sóc bẩn sang chăm sóc sạch trên cùng người bệnh.
  • Trước khi mang găng và sau khi tháo găng.
  • Trước khi vào buồng bệnh và sau khi ra khỏi buồng bệnh.
  • Mọi NVYT trong buồng phẫu thuật không trực tiếp động chạm vào NB (phụ
    mê, chạy ngoài, học viên…) phải VST trước khi vào buồng phẫu thuật. Trong buồng
    phẫu thuật, bất kỳ khi nào bàn tay chạm vào bề mặt thiết bị phương tiện phải VST
    ngay bằng dung dịch VST chứa cồn.
  • NVYT khi làm việc trong buồng xét nghiệm cần tuân thủ nghiêm thời điểm 3
    và 5 về VST để phòng ngừa lây nhiễm cho bản thân.
  • Kỹ thuật vệ sinh tay thƣờng quy
  • Dù VST bằng xà phòng và nước hoặc chà tay bằng dung dịch VST chứa cồn
    cần thực hiện theo kỹ thuật 6 bước:
  • Bước 1: Chà 2 lòng bàn tay vào nhau.
  • Bước 2: Chà lòng bàn tay này lên mu bàn tay kia và ngược lại.
  • Bước 3: Chà 2 lòng bàn tay vào nhau, miết mạnh các ngón tay vào các kẽ ngón.
  • Bước 4: Chà mu các ngón tay này lên lòng bàn tay kia và ngược lại (mu tay để
    khum khớp với lòng bàn tay).
  • Bước 5: Chà ngón cái của bàn tay này vào lòng bàn tay kia và ngược lại (lòng
    bàn tay ôm lấy ngón cái).
  • Bước 6: Chà các đầu ngón tay này vào lòng bàn tay kia và ngược lại.
    Hình ảnh minh họa các bước VST được trình bày tại Phụ lục 3.
  • Khi thực hiện quy trình VST thường quy cần lưu ý một số điểm sau:
  • Lựa chọn đúng phương pháp VST: Nếu bàn tay nhìn rõ vết bẩn hoặc dính các
    dịch tiết của cơ thể phải VST bằng nước và xà phòng thường. Chà tay bằng dung dịch
    VST chứa cồn khi tay không trông rõ vết bẩn, sau tháo bỏ găng hoặc khi thăm khám
    giữa các NB.
  • Lấy đủ 3ml -5 ml dung dịch VST cho mỗi lần VST.
  • Tuân thủ đúng kỹ thuật VST. Chà tay cùng hóa chất VST theo đúng trình tự từ
    bước 1 tới bước 6, mỗi bước chà 5 lần để bảo đảm hóa chất tiếp xúc đều trên toàn bộ
    bề mặt bàn tay. Trường hợp chà tay bằng dung dịch VST chứa cồn, nếu chà đủ 6 bước
    mà tay chưa khô thì lặp lại các bước cho tới khi tay khô. Trường hợp VST bằng nước
    và xà phòng thì trước khi lấy dung dịch xà phòng cần mở vòi nước và làm ướt bàn
    tay; sau khi kết thúc 6 bước chà tay cần rửa lại tay dưới vòi nước để loại bỏ hoàn toàn
    hóa chất trên tay, lau khô tay bằng khăn sạch, khóa vòi nước bằng khăn vừa sử dụng,
    thải bỏ khăn vào thùng thu gom khăn.
    11
  • Tuân thủ đúng thời gian VST: Thời gian chà tay với hóa chất VST theo quy
    trình 6 bước phải đạt từ 20 giây-30 giây.
  • Không rửa lại tay bằng nước và xà phòng sau khi đã chà tay bằng dung dịch
    VST chứa cồn.
  • Tránh làm ô nhiễm lại bàn tay sau VST: Sử dụng nước sạch để rửa tay, sử
    dụng khăn sợi bông/khăn giấy sạch dùng 1 lần để lau khô tay, sử dụng khăn đã dùng
    lau khô tay để đóng vòi nước. Không dùng một khăn lau tay chung cho nhiều lần rửa
    tay.
  • Không sử dụng máy sấy tay để làm khô tay. Xem xét lựa chọn loại găng tay
    không có bột talc để thuận lợi cho việc khử khuẩn tay bằng dung dịch VST chứa cồn.
  • Vệ sinh tay ngoại khoa
  • Mọi thành viên tham gia phẫu thuật (gồm phẫu thuật viên, phụ mổ và nhân viên
    gây mê tiếp xúc trực tiếp NB) phải VST ngoại khoa trước khi vào buồng phẫu thuật.
  • Áp dụng một trong hai phương pháp: VST ngoại khoa bằng dung dịch xà
    phòng khử khuẩn hoặc VST ngoại khoa bằng dung dịch VST chứa cồn. Quy trình
    VST ngoại khoa theo 2 phương pháp được trình bày chi tiết trong Phụ lục 4.
  • Không áp dụng đồng thời cả 2 phương pháp, vừa rửa tay bằng dung dịch xà
    phòng khử khuẩn, vừa chà tay bằng dung dịch VST chứa cồn vì làm tăng chi phí và
    tăng nguy cơ kích ứng da tay.
  • Khi thực hiện VST ngoại khoa cần chú ý:
  • Không để móng tay dài, tháo bỏ đồ trang sức trên tay, mang trang phục quy định
    riêng cho khu phẫu thuật (quần áo, mũ, khẩu trang, dép/bốt) trước khi VST ngoại khoa.
  • Chà toàn bộ tay theo trình tự từ bàn tay lên tới cổ tay, cẳng tay và khuỷu tay.
    Trong thời gian chà tay, luôn giữ bàn tay theo hướng lên trên để nước chảy từ bàn tay
    xuống khuỷu tay.
  • Thời gian chà tay với dung dịch xà phòng khử khuẩn chứa chlorhexidine 4%
    hoặc dung dịch VST chứa cồn tối thiểu 3 phút.
  • Không sử dụng bàn chải để chà lên da bàn tay tới khuỷu tay. Nếu thấy kẽ
    móng tay nhìn rõ vết bẩn thì có thể sử dụng bàn chải đã hấp tiệt khuẩn để đánh kẽ
    móng tay và chỉ đánh kẽ móng tay với ca phẫu thuật đầu tiên trong ngày.
  • Lau khô toàn bộ bàn tay, cẳng tay tới khuỷu tay bằng khăn vô khuẩn. Trường
    hợp VST ngoại khoa bằng dung dịch VST chứa cồn thì có thể sử dụng khăn sạch để
    lau khô tay sau khi rửa tay bằng dung dịch xà phòng thường. Không sử dụng máy sấy
    tay để làm khô tay.
  • Không khử khuẩn tay bằng cách ngâm tay vào chậu dung dịch cồn khử khuẩn.
    Chỉ sử dụng dung dịch VST chứa cồn đã được cấp phép sử dụng lấy từ bình cấp có
    bơm định lượng tự động hoặc cần gạt tay để chà tay.
  • Chỉ cần thực hiện VST ngoại khoa cho ca phẫu thuật đầu tiên. Với những ca
    phẫu thuật kế tiếp thực hiện tại cùng khu phẫu thuật thì chỉ cần thay găng và thực hiện
    các bước chà tay bằng dung dịch VST chứa cồn trong qui trình VST ngoại khoa.
    Trường hợp tay dây nhiều bột talc, dây máu/dịch cơ thể hoặc các chất ô nhiễm khác
    nhìn thấy được thì phải VST ngoại khoa lại đầy đủ theo các bước đã quy định.
    12
  • Sử dụng găng tay liên quan tới vệ sinh tay
  • Khi chăm sóc NB không mắc bệnh nhiễm trùng hoặc không đang trong tình
    trạng cách ly và bàn tay NVYT không bị tổn thương hoặc viêm da, NVYT không
    được mang găng tay trong một số thực hành thông thường sau:
  • Khám bệnh.
  • Cho ăn.
  • Lấy mạch, nhiệt độ, huyết áp.
  • Thay đồ vải cho NB (trừ khi thu gom đồ vải có dính máu, dịch cơ thể và
    chất thải).
  • Tiêm bắp, tiêm trong da, dưới da.
  • Viết hồ sơ bệnh án, viết và cầm giấy xét nghiệm, đánh máy tính, nghe điện
    thoại, vận chuyển NB.
  • Đi từ buồng bệnh này sang buồng bệnh khác, từ khoa này sang khoa khác.
  • Khuyến khích không mang găng tay khi thực hiện một số chăm sóc sạch/vô
    khuẩn (tiêm truyền, lấy máu, thay băng…) nếu bản thân NVYT thấy không có khả
    năng bị phơi nhiễm với máu/dịch tiết của cơ thể.
  • Khi trong buồng phẫu thuật, NVYT không tiếp xúc trực tiếp NB (phụ mê, chạy
    ngoài, sinh viên) không được mang găng tay (trừ khi có thực hành phải tiếp xúc với
    máu/dịch cơ thể). Khi thực hiện xong thao tác phải tháo găng ngay và VST bằng dung
    dịch VST chứa cồn. Không sử dụng một đôi găng để làm nhiều nhiệm vụ khác nhau
    trong buồng phẫu thuật.
  • Không sử dụng một đôi găng tay để chăm sóc cho nhiều NB.
  • Không sử dụng lại găng tay bằng cách chà tay ngoài găng bằng dung dịch VST
    chứa cồn để tiếp tục chăm sóc cho NB khác.
  • Xem xét lựa chọn loại găng tay phẫu thuật không có bột talc để thuận lợi cho
    việc VST ngoại khoa bằng dung dịch VST chứa cồn giữa các ca phẫu thuật hoặc khi
    phải thay găng trong quá trình phẫu thuật.
  • Đánh giá và xử trí tác dụng phụ liên quan tới hóa chất vệ sinh tay
  • NVYT khi có biểu hiện khô da tay, dị ứng, kích ứng với hóa chất VST làm ảnh
    hưởng tới việc tuân thủ VST của NVYT cần thông báo bằng văn bản tới khoa KSNK.
    Khoa KSNK có trách nhiệm kiểm tra, đánh giá mức độ biểu hiện không mong muốn
    và đề xuất lựa chọn loại hóa chất VST thích hợp.
  • Mỗi khi sử dụng chế phẩm VST mới, cơ sở KBCB cần đánh giá tác dụng phụ
    của chế phẩm đó theo phiếu đánh giá tác dụng không mong muốn của hóa chất VST
    (Phụ lục 5). Những chế phẩm VST có tỷ lệ tác dụng không mong muốn cao thì không
    được đưa vào sử dụng trong cơ sở KBCB.
  • Tập huấn, đào tạo và truyền thông về vệ sinh tay
  • Hằng năm mọi NVYT, đặc biệt là NVYT mới tuyển dụng và học viên y cần
    được hướng dẫn, đào tạo thực hành VST. Nội dung đào tạo VST cho NVYT được tóm
    tắt ở Bảng 2.
  • NB và người nhà NB cần được hướng dẫn thời điểm và kỹ thuật VST.
    13
  • Tờ quy trình, chỉ định VST cần được treo ở mọi điểm VST và khu vực hành
    chính của các khoa, phòng.
  • Hằng năm, cơ sở KBCB cần tổ chức tháng tăng cường VST trong toàn cơ sở
  • Kiểm tra, giám sát công tác vệ sinh tay
  • Cơ sở KBCB cần thường xuyên kiểm tra, giám sát công tác VST trong toàn
    bệnh viện và ở những khu vực có nguy cơ cao NKBV. Những nội dung chính liên
    quan tới kiểm tra, giám sát công tác VST cần bao gồm:
  • Giám sát phương tiện VST: Căn cứ vào nội dung 1 “Phương tiện VST” của
    Hướng dẫn này để xây dựng nội dung giám sát về loại phương tiện được sử dụng, chất
    lượng phương tiện, tính thích hợp, sẵn có của phương tiện VST và các phương tiện
    giáo dục, truyền thông VST được trang bị. Nhằm đảm bảo luôn có sẵn phương tiện
    VST tại mọi nơi chăm sóc NB, nội dung giám sát này cần được thực hiện định kỳ
    hằng quý và khi cần.
  • Giám sát tuân thủ thời điểm VST và sử dụng găng: Căn cứ vào nội dung 2 và 5
    “Thời điểm VST thường quy” và “Sử dụng găng tay liên quan tới VST” của Hướng
    dẫn này để triển khai giám sát tuân thủ thời điểm VST thường quy và sử dụng găng ở
    NVYT, NB và người nhà NB. Sử dụng mẫu phiếu giám sát tại Phụ lục 6 để giám sát
    tuân thủ VST. Các phương pháp giám sát có thể được áp dụng gồm giám sát trực tiếp,
    giám sát qua camera, giám sát gián tiếp qua lượng hóa chất được sử dụng. Giám sát
    cần được thực hiện tối thiểu hằng tháng ở mọi khoa lâm sàng.
  • Giám sát tuân thủ kỹ thuật VST: Căn cứ vào nội dung 3, 4 và 5 “Kỹ thuật
    VST thường quy” và “VST ngoại khoa” của Hướng dẫn này để thực hiện giám sát
    14
    tuân thủ các bước VST thường quy và VST ngoại khoa ở NVYT, tuân thủ thời gian
    VST, giám sát việc lựa chọn phương pháp VST thích hợp và giám sát tuân thủ các
    quy định khác về VST như: mang đồ trang sức, để móng tay dài, mang móng tay
    giả… Nội dung giám sát này cần được tiến hành hằng quý ở mọi khoa trong cơ sở KBCB.
  • Giám sát các tác dụng không mong muốn của hóa chất VST theo Phụ lục 5
    “Đánh giá tác dụng không mong muốn của hóa chất VST” của Hướng dẫn này.
  • Giám sát kiến thức, thái độ VST ở NVYT: Được thực hiện trước và sau các
    khóa tập huấn, đào tạo thực hành VST, đánh giá định kỳ hằng năm ở những đối tượng
    có tỷ lệ tuân thủ VST thấp và ở mọi NVYT mới tuyển dụng.
  • Thông báo kết quả kiểm tra, giám sát:
  • Kết quả kiểm tra, giám sát cần được thông báo tới NVYT và Lãnh đạo đơn vị
    được giám sát ngay sau mỗi buổi giám sát.
  • Định kỳ hằng tháng, hằng quý khoa KSNK cần tổng kết, phân tích và thông
    báo kết quả kiểm tra, giám sát tới Hội đồng KSNK, Lãnh đạo bệnh viện và Lãnh đạo
    các khoa/phòng trong toàn bệnh viện.
  • Khắc phục những vấn đề tồn tại phát hiện qua kiểm tra, giám sát: Những nội
    dung chưa tốt cần có kế hoạch khắc phục ngay nhằm đạt mục tiêu chương trình VST.
  • Xây dựng kế hoạch và đánh giá chƣơng trình vệ sinh tay
  • Hằng năm, các cơ sở KBCB cần xây dựng kế hoạch triển khai chương trình
    VST. Kế hoạch cần nêu rõ mục tiêu, nội dung, các biện pháp tăng cường, trách nhiệm
    của từng thành viên liên quan. Bản kế hoạch cần được Hội đồng KSNK và Giám đốc
    phê duyệt.
  • Hằng quý, các cơ sở KBCB cần tổ chức đánh giá và sơ kết chương trình VST.
    Nội dung và tiêu chí đánh giá theo Phụ lục 7.
  • Hằng năm, các cơ sở KBCB cần tổng kết, đánh giá toàn diện công tác VST và
    áp dụng các biện pháp hành chính, thi đua khen thưởng nhằm khuyến khích mọi đối
    tượng trong đơn vị thực hiện đúng hướng dẫn VST, tạo môi trường an toàn VST.

You need to add a widget, row, or prebuilt layout before you’ll see anything here. 🙂

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *